Posts

Showing posts from 2021

Tuyệt cú kì 2. Đỗ Phủ

Image
絕句 (其二) 江碧鳥逾白,      江碧鸟逾白, 山青花欲燃。      山青花欲燃。 今春看又過,      今春看又过, 何日是歸年?       何日是归年? 杜甫   - 絕句 tuyệt cú: thể thơ có từ thời Lục Triều, nhưng đến đời Đường mới thịnh hành. Tuyệt 絕 có nghĩa là dứt, hết. Tuyệt cú chỉ thể thơ mỗi bài chỉ có 4 câu là dứt. Nếu mỗi câu có 5 chữ thì gọi là ngũ ngôn tứ tuyệt, hay nói gọn là ngũ tuyệt 五絕. Thường gặp là  ngũ tuyệt, thất tuyệt; lục tuyệt ít gặp.  Thơ Tuyệt cú được phân làm hai loại là luật tuyệt và cổ tuyệt. Luật tuyệt thì tuân thủ các quy tắc của thơ Đường luật. Cổ tuyệt tức thể thơ cổ phong, nhưng chỉ có bốn câu. 絕句 tuyệt cú, còn gọi là 截句 tiệt cú, 斷句 đoạn cú, 絕詩 tuyệt thi, 短小精萃 đoản tiểu tinh túy, 四句一首 tứ cú nhất thủ. - 其二 kì nhị = bài hai. Đỗ Phủ có nhiều chùm thơ tuyệt cú. Có chùm hai bài, có chùm 3 bài, 4 bài, .. Đây là bài hai trong chùm hai bài ngũ ngôn tuyệt cú ông viết năm 764.  - 江碧 giang bích = màu xanh biếc của dòng sông, dòng sông xanh biếc.. 江 giang = sông, 碧 bích = xanh biếc. - 逾 du:更多 (càng thêm). - 花欲燃 hoa dục nhiên = =

Thiên nhai . Lí Thương Ẩn

Image
  天涯 春日在天涯, 春日在天涯, 天涯日又斜。 天涯日又斜。 鶯啼如有淚, 莺啼如有泪, 為濕最高花。 为湿最高花。 李商隱  Chú . - 天涯 thiên nhai = chân trời. Hải giác thiên nhai = chân trời góc bể, chỉ nơi xa lắm lắm.  - 斜 tà = nghiêng. 斜 âm pinyin hiện đại là /xié/, âm cổ là /xiá/ (bắt vần với chữ nhai 涯 /yá/ ở câu trên) 日又斜 nhật hựu tà = mặt trời cũng đã xế bóng. - 鶯啼 oanh đề = oanh kêu.  - 為濕 vi thấp = làm ướt.  - 最高花 tối cao hoa = bông hoa trên cành cây cao nhất. Cũng là bông hoa nở cuối cùng trên cây. Tác giả: 李商隱  Lí Thương Ẩn (813 - 857), một trong những nhà thơ xuất sắc nhất thời Vãn Đường, cùng với Đỗ Mục được người đời tôn xưng là Tiểu Lí Đỗ (gọi "tiểu" để phân biệt với cặp Lí Đỗ nổi tiếng thời Thịnh Đường - Lí Bạch - Đỗ Phủ). Trong tuyển tập thơ nổi tiếng Đường thi tam bách thủ, Lí Thương Ẩn được chọn 20 bài, số lượng đứng hàng thứ tư. Âm Hán Việt :  Thiên nhai. Xuân nhật tại thiên nhai, thiên nhai nhật hựu tà. Oanh đề như hữu lệ, vi thấp tối cao hoa.  Lí Thương Ẩn Nghĩa : Chân trời.  Ngày xuân nơi chân trời, Nơi

tận tín thư

Image
盡信書不如無書。 尽信书不如无书。 Chú: 盡 tận (phó từ) = rất, quá sức.  盡信 tận tín = hoàn toàn tin, quá sức tin. 書 thư = sách; gọi tắt cuốn Thượng Thư, một trong ngũ kinh của Nho giáo. 不如無 bất như vô = không bằng không có Âm Hán Việt: Tận tín thư bất như vô thư. / jìn xìn shū bù rú wú shū / Nghĩa: Tin hoàn toàn vào sách thì chẳng thà không có sách còn hơn. Chữ lấy trong sách Mạnh tử (thiên Tận tâm, hạ). Nguyên văn 盡信[書]則不如無[書]. Nguyên văn không có chữ thư 書. Chữ thư 書 được hiểu ngầm theo ý đoạn văn. Và thật ra thư 書 ở đây không phải là danh từ chung, phiếm chỉ một quyển sách nào đó, mà là tên thường gọi của quyển Thượng Thư, một quyển sách lịch sử do Khổng tử san định, về sau được xếp vào hàng kinh điển, một trong ngũ kinh của Nho giáo. Mạnh tử dù rất tôn trọng Khổng tử, dành suốt đời mình để bảo vệ, xiển dương những tư tưởng của vị sư tổ, nhưng khi đọc sách gặp những điều bất hợp lí, ông vẫn mạnh mẽ cảnh báo: Hoàn toàn tin vào kinh Thư, chẳng thà không có kinh Thư còn hơn. Đối với kinh điển còn ph

Biệt lão hữu

  別老友 別離無遠近, 臨老禁愁難。 欲去更回首, 川原增暮寒。 從善王 Âm Hán Việt Biệt lão hữu Biệt li vô viễn cận, Lâm lão cấm sầu nan. Dục khứ cánh hồi đầu, Xuyên nguyên tăng mộ hàn. Tùng Thiện Vương Chú 臨老 lâm lão = đến tuổi già. 禁愁 cấm sầu = ngăn nỗi buồn. 更 cánh (phó từ) = lại nữa. 川原 xuyên nguyên = sông suối và cánh đồng. 暮寒 mộ hàn = cái lạnh lúc chiều tối. Tác giả Tùng Thiện Vương (1819 - 1870), tên thật Nguyễn Phúc Miên Thẩm, con thứ 10 của vua Minh Mạng, người sáng lập Mạc Vân thi xã ở đất Thần kinh. Dưới triều Nguyễn, các vị hoàng thân như ông không được phép thi cử, làm quan. Nhưng ông cũng được phong tước Tùng Thiện công. Con rể ông là Đoàn Trưng đã nổi lên chống triều đình (Giặc Chày vôi thời Tự Đức). Dù trước đó Đoàn Trưng đã lấy cớ vợ không nghe lời, bỏ vợ; nhưng sau vụ nổi loạn ông cũng phải nhận hình phạt cắt bổng lộc 8 năm. Ông lên chùa ở, gia đình ông phải trồng cây ăn quả mang chợ bán để mưu sinh. Ông mất lúc 51t. Tùng Thiện Vương là Bảo Đại truy phong cho ông sau này. Nghĩa : Chia tay bạn Chia ta

hoa dại

  野花 野花生竹下, 野花生竹下, 竹深花亦繁。 竹深花亦繁。 花繁翻笑竹, 花繁翻笑竹, 春至不能言。 春至不能言。 阮通 Âm : Dã hoa Dã hoa sinh trúc hạ:  Trúc thâm hoa diệc phồn. Hoa phồn phiên tiếu trúc, Xuân chí bất năng ngôn. Nguyễn Thông. Chú: - 野花 dã hoa = hoa dại. 生 sinh = sinh trưởng, mọc. 竹下 trúc hạ = dưới cây/bụi tre. - 竹深 trúc thâm = tre tươi tốt. 深 thâm nghĩa thường gặp là sâu. 繁 phồn = nhiều, đông. Như 枝葉繁盛 chi diệp phồn thịnh = cành lá um tùm. 繁榮 phồn vinh = giàu có, thịnh vượng. - 翻 lật. Như trong phiên thân = trở mình; phiên cung = lật cung. Phiên trong phiên âm, phiên dịch cũng là chữ phiên 翻 này. 笑 tiếu = cười; cười chê. - 春至 xuân chí = mùa xuân đến. 不能言 bất năng ngôn = không nói được gì. Xuân đến hoa nở chào đón, tre thì lặng lẽ như mọi ngày. Tác giả: Nguyễn Thông (1827–1884) người Gia Định (về sau Pháp chiếm Nam kì, ông dời nhà về sống ở Bình Thuận, hiện mộ phần cũng ở đó), làm quan dưới triều Tự Đức. Trước tác ông để lại có mấy cuốn sử, mấy tập thơ: Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Kì Xuyên thi sao, ..  Ng

Thủy xa . Đào Tấn

Image
水車 五月六月不雨天 踏車兒女歌且眠 詩人每道田家樂 如此田家最可憐。 陶進 Âm : Thủy xa Ngủ nguyệt lục nguyệt bất vũ thiên, Đạp xa nhi nữ ca thả miên. Thi nhân mỗi đạo điền gia lạc, Như thử điền gia tối khả liên. Đào Tấn Chú : - 水車 xe đạp nước (dùng dẫn nước từ nơi thấp vào ruộng, dùng hồi chưa có máy bơm) - 五月六月 tháng năm, tháng sáu; hai tháng thường nắng to ở miền Trung (quê của tác giả). - 歌且眠 tức且歌且眠 vừa ca vừa ngủ gật. 且 thả (liên từ), 且 .. 且 .. vừa .. vừa. - 每道 mỗi đạo = thường nói. 每 mỗi (phó từ) = thường, luôn. (每 đại từ: các, mỗi. 每人 mỗi người). 道 đạo (động từ) = nói. (道 đạo (danh từ) = con đường) - 田家 điền gia = nhà nông - 可憐 khả lân = đáng thương. 陶進 Đào Tấn (1845-1907) người Bình Định, thuộc dòng dõi của Đào Duy Từ. Từng làm quan đến chức thượng thư bộ Công. Có đóng góp rất lớn cho nghệ thuật tuồng. Nghĩa : Xe đạp nước Tháng năm tháng sáu trời không mưa, Cô gái vừa đạp xe nước vừa ca hò vừa ngủ gật. Nhà thơ thường bảo người làm ruộng vui, Làm ruộng như thế

Xuân thảo . Trương Húc

Image
春草青青萬里餘,           春草青青万里馀, 邊城落日見離居。           边城落日见离居。 情知海上三年別,           情知海上三年别, 不寄雲間一紙書。           不寄云间一纸书。 張旭 Âm : Xuân thảo thanh thanh vạn lý dư, Biên thành lạc nhật kiến ly cư. Tình tri hải thượng tam niên biệt, Bất ký vân gian nhất chỉ thư. Trương Húc. Chú - 離居 li cư = nơi ở của người xa nhà. - 情知 tình tri = biết rõ. 情 tình ở đây là phó từ, có nghĩa rõ ràng (情 tình danh từ = tình cảm). - 海 hải = biển, ở đây là biển cát. - 雲間 vân gian = trên mây. Người xưa dùng chữ "tin nhạn" để chỉ thư tín. Nhạn bay trên mây, nên vân gian ở đây cũng chỉ thư tín. 張旭 Trương Húc nhà thơ đồng thời là nhà thư pháp nổi tiếng thời Thịnh Đường, được xưng tụng là Thảo thánh (thánh viết chữ thảo). Nghĩa : Bài thơ nói lên tâm tình của một thiếu phụ có người thương ở nơi biên thành giữa chốn biển cát xa xăm. Chiều xuân, nhìn có xanh ngút ngàn ngoài vạn dặm, Nơi biên thanh giờ này hẳn mặt trời đang xế bóng, dòm vào chỗ ở của kẻ xa nhà. Rõ là chia tay vào nơi biển cát đã ba năm, Mà sao chẳn

Sơn trung

Image
山中 長江悲已滯,           长江悲已滞, 萬里念將歸.           万里念将归。 況屬高風晚,           况属高风晚, 山山黃葉飛.           山山黄叶飞。 王勃 。 Âm : Sơn trung. Trường Giang bi dĩ trệ, Vạn lý niệm tương quy. Huống thuộc cao phong vãn, Sơn sơn hoàng diệp phi. Vương Bột. Chú thích : - 長江 Trường giang = sông dài. Cũng là tên thường gọi của Dương tử giang, con sông dài nhất của Tàu (gần 6.5 ngàn km) - 山中 sơn trung = trong núi. Nhan đề bài thơ, có tài liệu ghi: 思歸 tư quy = mong về nhà. - 滯 trệ:ứ đọng.  - 萬里 vạn lí = vạn dặm; người ở xa vạn dặm, đường về quê dài vạn dặm. 念將歸:tưởng đến việc về nhà (mà không về được).  - 況屬 huống thuộc = huống là. 屬:vừa lúc. 高風:gió trong núi cao thổi. Cũng có bản ghi 秋風 gió thu.  Tác giả: Vương Bột là nhà thơ thời Sơ Đường, lừng danh với bài Đằng vương các tự Lạc hà dữ cô lộ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc ..  Tài hoa, nhưng đoản mệnh, chết khi mới 27t, trên đường đi thăm cha ở Giao Chỉ (tên nước ta bấy giờ) về bị chìm thuyền. Tương truyền ông được dân vớt lên và chôn ở Nghệ

thơ vua

Image
三杯紅酒群黎血, 數盞青茶百姓膏。 天淚落時民淚落, 歌聲高也哭聲高。 Tam bôi hồng tửu quần lê huyết, Sổ trản thanh trà bách tính cao. Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc, Ca thanh cao dã khốc thanh cao. Chú : - 黎 lê. Nghĩa gốc là một loại hồ dán nấu từ gạo nếp; sau được mượn chỉ đám đông. Lê dân = dân chúng. Lê còn chỉ màu đen, nên lê dân hay được dịch là dân đen. 群黎 quần lê = đám đông, dân chúng. - 百姓 bách tính = trăm họ, chỉ dân chúng. - 膏 cao. Nghĩa gốc là mỡ nước (Mỡ miếng gọi là chi 脂, mỡ nước gọi là cao 膏). Mở rộng, chỉ những chất sền sệt như mỡ, ví dụ thức ăn hay thuốc được cô đặc lại. Đông y có phương thuốc nấu từ xương động vật cũng gọi là cao: cao hổ cốt, cao khỉ, ..  Nghĩa : Ba li rượu hồng là máu của dân đen, Mấy chén trà xanh là cao xương trăm họ. Lúc trời rớt nước mắt là dân rơi lệ, Tiếng ca cao tiếng khóc càng cao. Tạm dịch ba chén rượu nồng dân máu đỏ mấy li trà ngọt chúng xương vàng trời rơi nước mắt người rơi lệ, tiếng hát vang tiếng khóc cũng vang. Bản dịch thơ của Tôn Thất Sa: Ba chung rượu đỏ dường dân h

Hồi hương ngẫu thư (2)

Image
  回鄉偶書 (2) 離別家鄉歲月多, 离别家乡岁月多, 近來人事半消磨。 近来人事半消磨。 惟有門前鏡湖水, 惟有门前镜湖水, 春風不改舊時波。 春风不改旧时波。 賀知章 Âm : Hồi hương ngẫu thư (2). Li biệt gia hương tuế nguyệt đa, Cận lai nhân sự bán tiêu ma. Duy hữu Kính hồ môn tiền thủy, Xuân phong bất cải cựu thì ba. Hạ Tri Chương Chú thích: Đây là bài thứ hai trong hai bài thơ Hạ Tri Chương viết khi trở về quê sao gần 50 năm cách biệt. - 歲月 tuế nguyệt = năm tháng. - 近來 cận lai = gần đây. - 消磨 tiêu ma = tiêu thất, tiêu tán. - 鏡湖 Kính hồ = tên hồ trước cửa nhà tác giả. Nghĩa :  Xa cách quê nhà đã nhiều năm tháng, gần đây việc đời phân nửa đã dần dần mất hẳn. Chỉ có nước Kính hồ trước ngõ nhà, gió xuân không thay đổi làn sóng cũ. Tạm dịch : Li biệt quê nhà bao tháng năm, Người xưa chuyện cũ hóa xa xăm. Chỉ có trước hồ vẫn như cũ, Gió xuân nước gợn sóng lăn tăn. Một số bản dịch thơ đọc được trên trang thivien . net Năm tháng xa nhà chắc đã lâu Bạn bè mất nửa, nửa về đâu Hồ Gương trước cửa lung linh nước Gió chẳng làm thay gợn sóng sầu. Hải Đà Quê nhà xa các

Hồi hương ngẫu thư (1)

Image
  回鄉偶書 少小離家老大回, 少小离家老大回, 鄉音無改鬢毛衰。 乡音无改鬓毛衰。 兒童相見不相識, 儿童相见不相识, 笑問客從何處來。 笑问客从何处来。 賀知章 Âm : Hồi hương ngẫu thư Thiếu tiểu li gia lão đại hồi, Hương âm vô cải mấn mao thôi. Nhi đồng tương kiến bất tương thức, Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai. Hạ Tri Chương. Chú : + 書 thư, là sách; còn có nghĩa là viết, như thư pháp   = phép viết chữ. Hồi hương ngẫu thư = Ngẫu hứng viết khi về quê. + 鬢 mấn, tóc mai.  + 衰 suy, cũng đọc thôi, nghĩa gốc là cái áo tơi (hình chữ gồm chữ y  衣 áo + hình một mảng áo có đầu nhọn của lá tơi tủa ra); mượn dùng làm tính từ, có nghĩa là lụn bại (do hình ảnh chiếc áo te tua?).  + 相見 tương kiến = thấy nhau, gặp nhau. + 相識 tương thức = biết nhau. Tác giả 賀知章 Hạ Tri Chương là một nhà thơ thời nhà Đường. Ông đỗ tiến sĩ năm 37t, từ đó xa quê đi làm quan. mãi đến năm 80t mới cáo lão từ quan, về lại quê cũ. Được một năm thì mất. Bài thơ trên đây là một trong hai bài "Hồi hương ngẫu thư" ông viết khi mới trở về quê. Nghĩa : Thủa nhỏ xa quê, già trở về, Giọng quê k

Mẫn nông 2

Image
Hồi nhỏ, đọc bài thơ  Cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. cứ nghĩ là ca dao. Rất lâu sau này mới biết đó là bản dịch tuyệt hay bai thơ Mẫn nông (2) của Lí Thân. (Mẫn nông 1 đã học hôm trước) 憫農 (2) 鋤禾日當午, 汗滴禾下土。 誰知盤中餐, 粒粒皆辛苦。 李紳 Giản thể 锄禾日当午 , 汗滴禾下土。 谁知盘中餐 , 粒粒皆辛苦 。 Âm Sừ hoà nhật đương ngọ, Hãn trích hoà hạ thổ. Thuỳ tri bàn trung xan, Lạp lạp giai tân khổ. Lí Thân. Nghĩa Cày lúa lúc trời đang trưa, Giọt mồ hôi rơi xuống ruộng lúa. Ai biết rằng trên mâm cơm kia, Từng hạt từng hạt đều cay đắng. Bản dịch lục bát của tác giả khuyết danh quá hay (không biết có ai nghi Lí Thân dịch ca dao của ta không, như đã có người cho Thanh Tâm tài nhân dịch Kiều qua tiếng Tàu!). Dù vậy cũng thử dịch lại bằng thể ngũ ngôn để học cho vui Tạm dịch: Cày đồng trưa nắng to, Giọt giọt mồ hôi nhỏ. Bưng cơm ăn ai hay, Hột hột bao gian khó. Chép thêm một số bản dịch đcọ được trên trang thiviên . net Khương Hữu Dụng: Xới

Mẫn nông

Image
  憫農 (1) 春種一粒粟, 秋收萬顆子。 四海無閑田, 農夫猶餓死. 李紳 Giản thể: 春種一粒粟, 秋收萬顆子。 四海無閒田, 農夫猶餓死 Âm Hán Việt Mẫn Nông Xuân chủng nhất lạp túc, Thu thâu vạn khoả tử. Tứ hải vô nhàn điền, Nông phu do ngạ tử. Lí Thân Chú: - 憫農 mẫn nông = thương xót nhà nông. - 一粒粟 nhất lạp túc = một hột lúa. - 顆子 khỏa tử = hạt - 四海 tứ hải = bốn biển, chỉ khắp nơi. - 閑田 nhàn điền = ruộng bỏ không. - 猶 do = (phó từ) còn, mà còn. Do 猶 vốn là tên một loài thú có tính đa nghi, như con dự , người ta lấy tên hai loài thú này kết hợp thành từ do dự  chỉ sự đa nghi lưỡng lự không có quyết định dứt khoát. - 餓死 ngạ tử = chết đói. ( Ngạ quỷ = quỷ đói).  Lí Thân (772 - 846) là một quan đại thần đời Đường, từng làm đến tể tướng; đồng thời là một nhà thơ lớn, bạn thân của Bạch Cư Dị. Ông nổi tiếng với hai bài thơ Mẫn nông , đây là bài thứ nhất. Nghĩa: Mùa xuân gieo một hạt lúa, đến mùa thu thu được vạn hạt thóc. Khắp nơi không có ruộng bỏ hoang, sao nông phu vẫn còn người chết đói? Tạm dịch: Xuân đến gieo một hột, Thu về gặt cả hôc.  Ruộng

Đáp nhân

Image
  答人   偶來松樹下, 高枕石頭眠。 山中無歷日, 寒盡不知年。 太上隱者 Giản thể : 答人。 偶来松树下, 高枕石头眠。 山中无历日, 寒尽不知年。 Âm Hán Việt :   Đáp nhân.  Ngẫu lai tùng thụ hạ, Cao chẩm thạch đầu miên. Sơn trung vô lịch nhật, Hàn tận, bất tri niên. Thái thượng ẩn giả. - 答人 đáp nhân = trả lời cho người. Theo "Cổ kim thi thoại" đời Đường, trong úi Chung nam có vị ẩn sĩ, tên gì, quê quán ở đâu khong ai biết. Có người hiếu kì, đi theo hỏi, ông làm bài thơ trên đây để lại rồi đi mất; người đời gọi ông là Thái Thượng ẩn giả.  - 偶:偶然。Ngẫu nhien, bất chợt, tình cờ.  - 高枕:cao chẩm. Nằm kê gối cao, ngụ ý thanh nhàn vô sự. - 歷日:lịch.  - 寒:hàn = lạnh, thời tiết mùa đông.  Nghĩa : Chợt hứng lên thì tới dưới gốc thông, lấy đá kê cao gối đầu ngủ. Trong núi không có lịch, nên biết hết rét rồi, mùa đông đã tàn, nhưng không biết là mùa đông năm nào. Tạm dịch: Hứng tìm gốc thông to, Đá cao gối ngủ khò. Trong núi không có lịch, Ngày tháng biết chi mô. Chép thêm một số bản dịch thấy trên trang thivien.net và một số trang mạng khác, mọi ng

tam vạn quyển thư

Image
  壬寅年六月作 年來夏旱又秋霖 禾稿苗傷害轉深 三萬卷書無用處 白頭空負愛民心 陳元旦 Âm Hán Việt Nhâm Dần niên lục nguyệt tác Niên lai hạ hạn hựu thu thâm, Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm. Tam vạn quyển thư vô dụng xứ, Bạch đầu không phụ ái dân tâm. Trần Nguyên Đán Chú:  - 壬寅年 nhâm dần niên = năm nhâm dần, ở đây là năm 1362.  - 六月 lục nguyệt = tháng sáu. - 年來 niên lai = năm rồi, năm qua. - 三萬卷書 ba vạn quyển sách. Chú ý "quyển" xưa khá khác với bây giờ. Mỗi "quyển" có khi chỉ vài chục trang, thậm chí vài trang. Cuốn "Đại Việt Sử kí" là gồm 30 quyển. Dù vậy ba vạn quyển cũng là số lượng rất lớn. Ở đây ý là đọc rất nhiều sách. - 空負 không phụ =  phụ lòng, như cô phụ. - 陳元旦 Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), chắt của Trần Quang Khải, ông ngoại của Nguyễn Trãi. Làm quan đến chức Tư đồ thời cuối nhà Trần. Năm 1385 xin trí sĩ, về sống ẩn dật tại Côn Sơn.  Bài thơ này ông làm lúc đang giữ chức Đại phu Ngự sử đài, chuyên việc can gián dưới triều vua Trần Dụ Tông. Nghĩa : Thơ viết tháng 6 năm Nhâm Dần. Năm

du tử ngâm

Image
遊子吟 慈母手中線,遊子身上衣。 臨行密密縫,意恐遲遲歸。 誰言寸草心,報得三春暉。 Giản thể 慈母手中线,游子身上衣。 临行密密缝,意恐迟迟归。 谁言寸草心,报得三春晖 。 Bài thơ của Mạnh Giao, một nhà thơ nổi tiếng thời Đường, cùng với Giả Đảo được người đương thời đặt nick "Giao hàn Đảo sấu" (Mạnh Giao rét lạnh, Giả Đảo ốm o). Rét lạnh, ốm o vì ham đẽo chữ gọt vần đến quên ăn quên ngủ. Thế nhưng bài thơ của Giả Đảo được yêu thích nhất, bài "Tầm ẩn giả bất ngộ" học tuần trước, lại là bài ý tứ thâm trầm nhưng lời lẽ lại rất giản dị, đến mức người Việt dù không biết chữ Hán, nghe đọc (âm Hán Việt) lên cũng có thể hiểu được ý nghĩa của bài thơ. Bài này của Mạnh Giao, đối với người Việt chưa từng học chữ Hán thì có lẽ có đôi chữ nghe lạ. Âm Hán Việt Du tử ngâm Từ mẫu thủ trung tuyến, Du tử thân thượng y. Lâm hành mật mật phùng, Ý khủng trì trì quy. Thùy ngôn thốn thảo tâm, Báo đắc tam xuân huy. 遊子吟 du tử ngâm = khúc ngâm của người du tử. Du = đi, du tử = người rời nhà đi đâu đó, và ở lại bên ngoài khá lâu.  慈母 từ mẫu = mẹ hiền, 手中線 thủ trung tuyế

Tầm ẩn giả bất ngộ

Image
尋隱者不遇 . 松下問童子,言師採藥去。 只在此山中,雲深不知處 。 賈島 Giản thể: 松下问童子,言师采药去。 只在此山中,云深不知处 。 Bài thơ của Giả Đảo thời Đường. Giả Đảo là người nổi tiếng với "thôi xao", nhưng bài thơ trên đây thì lời lẽ rất giản dị, tự nhiên; có lẽ nhiều người Việt không biết chữ Hán, nhưng đọc phiên âm Hán Việt cũng hiểu nghĩa của các câu thơ. Âm (Hán Việt) : Tầm ẩn giả bất ngộ. Tùng hạ vấn đồng tử, ngôn sư thái dược khứ. Chỉ tại thử trung sơn, Vân thâm bất tri xứ. Nghĩa Tầm = tìm, ẩn giả = người ở ẩn, bất ngộ = không gặp. Tùng hạ = dưới gốc tùng/thông, vấn = hỏi,  đồng tử = đứa nhỏ,  Ngôn = nói. sư = thầy, thái dược khứ = hái thuốc rồi. Chỉ tại = chỉ tại, thử trung sơn trong núi này,  Vân = mây, thâm = sâu, bất tri xứ = không biết chỗ. Tác giả đi vào núi tìm thăm vị ẩn giả. Thấy chú nhỏ thư đồng hay học trò  gì đó của vị này dưới gốc tùng, bèn hỏi thăm. Chú nhỏ thưa thầy đi hái thuốc rồi. Chỉ tại trong núi này thôi, nhưng mây dày đặc, không rõ thầy đang ở chỗ nào. Dịch tạm cho vui Gốc tùng, hỏi chú nhỏ, Thưa

21. cử nhất phản tam

Image
  舉一反三 (举一反三) jǔ yī fǎn sān 舉 cử = đưa lên; 一 nhất = một; 反 phản = suy ra; 三  tam = ba. 舉一反三 cử nhất phản tam = từ một mà suy ra ba, học một biết mười.  Nhất 一, tam 三 ở đây vốn là 一隅, 三隅 nhất / tam ngung = một / ba góc. Nguyên văn trong Luận ngữ (7.8): Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát, cử nhất ngung tắc dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã 不憤不啟, 不悱不發, 舉一隅不以三隅反, 則不復也 (Thuật nhi 述而) Ai không bực, tức [vì chưa hiểu], thì không gợi mở cho. Vén một góc rồi mà không tự nghĩ cách vén ba góc kia, thì không dạy cho nữa.  Các thành ngữ 舉隅反三 cử ngung phản tam, 一隅三反 nhất ngung tam phản, .. cũng là có nguồn gốc từ câu trích trong Luận ngữ này, và ý nghĩa hoàn toàn tương tự. Học, thầy chỉ gợi ý cho phần nào, còn lại trò phải tự tìm tòi lấy. Bởi ai học nấy biết. Không thể học thay, cũng như không thể ăn thay.  Người xưa dạy và học là như thế.  Tất nhiên muốn dạy học kiểu ấy, phải dành đủ thời gian cho trò. Còn như bây giờ, thầy cõng trò còn chạy ko kịp chương trình. Khi đó ko những trò bị điểm kém,

20. tri chi vi tri chi

Image
  知之為知之 (知之为知之) Tri chi vi tri chi /zhī zhī wéi zhī zhī/  知 tri = biết. 之 chi = làm trợ từ, để nhấn mạnh. 為 vi = thì là. Tri chi vi tri chi = biết thì nói là biết. Chữ lấy trong sách Luận ngữ, vốn là lời Khổng tử nói với Trọng Do, học trò ông:  Do, hối nhữ tri chi hồ? Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã . [1] = Do, ta dạy cho ngươi thế nào là “biết” nhé? Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, thế là biết vậy. Biết mình không biết có lẽ là cái biết quan trọng nhất, vì là cơ sở cho những cái biết khác. Nó đòi hỏi sự tự tin, dũng cảm, và chân thành. Vì thế mà Socrates nổi tiếng với câu nói, đại ý: "Tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả". Thường vì thiếu tự tin, giàu tự ái người ta hay dấu dốt, không biết cũng làm ra vẻ như biết rồi. Lão tử nhận xét về loại người này: Bất tri tri, bệnh dã [2] = không biết mà làm như biết rồi, là bệnh vậy. HỌC CHỮ Ta sẽ học cả câu:  知之為知之,不知為不知,是知也。 知 tri /zī/ = biết. Bộ thỉ 矢. Chữ hội ý gồm thỉ 矢 là hình mũ

19. bất sỉ hạ vấn

Image
不恥下問 (不耻下问) bù chǐ xià wèn 不 bất = không; 恥 sỉ = xấu hổ; 下 hạ = phía dưới, ở đây chỉ người có địa vị xã hội, hoặc học vấn, tuổi tác, ti ếngtăm, ..  kém hơn; 問 vấn = hỏi. 不恥下問 bất sỉ hạ vấn = không xấu hổ mà đi hỏi người dưới mình.  Ai cũng rõ  muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học . Nhưng không dễ gì tự nhận mình không biết, vượt qua được sự ngượng ngùng để đi hỏi, nhất là lại hỏi người có địa vị thấp hơn mình. Thật ra, ai cũng có thể dạy ta điều gì đó. Thầy dạy trò, nhưng ngược lại trò cũng dạy thầy. Một giáo viên phải qua nhiều năm quan sát cách học, cách hiểu của học trò mới hoàn thiện dần cách dạy của mình, trở thành giáo viên dạy tốt, đó chẳng phải học từ trò là gì. Khổng tử từ xưa cũng đã nói: Tam nhân hành tất hữu ngã sư  = ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Câu trên đây lấy từ Luận ngữ, là lời Khổng tử nhận xét về một người đương thời, khen ông ta có lòng khiêm tốn ham học (5.15): 敏而好學,不恥下問。 Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn = thông minh và hiếu học, không thấy xấu hỗ hỏ

18. học nhi bất yếm

Image
  學而不厭 (学而不厌) xué ér bù yàn 學 học = học; 而 nhi = mà; 不 bất = không; 厭 yếm = chán.  學而不厭 học nhi bất yếm = học không biết chán.  Học nhiên hậu tri bất tuc  = học rồi mới thấy không đủ. Nên càng phải học nhiều hơn, học, học nữa, học mãi. Học không biết chán. Đây là câu lấy trong Luận ngữ (7.2): 子曰: 默而識之,學而不厭,誨人不倦,何有於我哉 Tử viết: Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện, hà hữu ư ngã tai? = Khổng tử nói: Lặng lẽ mà tìm biết, học không biết chán, dạy người không biết mệt. Những điều ấy liệu ta có chăng?  HỌC CHỮ 爻 hào [yáo] = hào, vạch. Bộ 爻 hào. Trong Dịch, vạch liền 一 gọi là hào dương, vạch đứt - - gọi hào âm. Ba hào kết hợp lại thành một quẻ. Có tất cả 8 kết hợp như thế, nên có 8 quẻ (bát quái) là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, li, khôn, đoài.  Cờ Hàn Quốc: giữa là hình lưỡng nghi, quanh là bốn quẻ: càn, khảm, khôn, li. Cờ VN thời chính phủ Trần Trọng Kim gọi là cờ quẻ li, gồm ba gạch; hai bên là gạch liền, giữa gạch đứt. Quẻ li chỉ phương nam. Cờ VNCH có ba vạch, nếu (giả sử)

17. học nhiên hậu tri bất túc

Image
  學然後知不足 (学然后知不足) xué rán hòu zhī bú zú. 學 học = học; 然後 nhiên hậu = rồi mới. 知 tri = biết; 不 bất = không; 足 túc = đủ. 學然後知不足 học nhiên hậu tri bất túc = học rồi mới biết là không đủ.  Mạnh tử nói dĩ học dũ ngu 以學愈愚 học cho bớt ngu. Nhưng càng học càng thấy, như Newton ví von, cái biết của mình chỉ như một hạt cát trên bãi biển. Càng học càng thấy cái học của mình là chưa đủ. Hay như có người nói  dũ học dũ ngu  愈學愈愚 càng học càng thấy ngu.  Câu này lấy trong kinh Lễ: Tuy hữu gia hào, phất thực, bất tri kì chỉ dã; tuy hữu trí đạo, phất học, bất tri kì thiện dã. Thị cố học nhiên hậu tri bất túc, giáo nhiên hậu tri khốn. Tri bất túc, nhiên hậu năng tự phản dã; tri khốn, nhiên hậu năng tự cường dã. Cố viết: giáo học tương trưởng dã [1] . = tuy có đồ ăn ngon, không ăn, không biết nó ngon thế nào; tuy có cách tốt, không học, không biết nó hay làm sao. Thế nên học rồi mới biết không đủ, dạy rồi mới biết còn thiếu. Biết không đủ, rồi mới tỉnh ra; biết thiếu, rồi mới cố gắng. Nên nói: dạy v

16. bất học vô thuật

Image
不學無術 (不学无术)  bù xué wú shù 不 bất = không; 學 học = học; 無 vô = không; 術 thuật = phương pháp, cách thức. 不學無術 bất học vô thuật = không học thì không biết cách làm. Như Mạnh tử từng dặn dĩ học dũ ngu , phải học cho bớt ngu, không học, ngu dốt, biết chi mà làm? Không học mà làm tất làm càn, thường trúng ít sai nhiều. Và sai lầm không phải bao giờ cũng sửa được; lắm khi để lại những hậu quả khôn lường. 不學無術 bất học vô thuật nay thường được hiểu là không có học vấn và kĩ năng, tài cán gì. HỌC CHỮ 不 bất [bù] = không. Bộ 一 nhất, ở đây biểu thị mặt đất; dưới là hình mầm cây vừa bén rễ. Bị mượn (giả tá) làm phó từ, có nghĩa là không. Còn nghĩa mầm thì thêm bộ nhục đặt chữ mới: phôi 肧. 不一 không như nhau. 不二 không hai (lòng), không làm lại lần hai. Bất lực  不力 không hết lòng hết sức (ta thường hiểu là không có sức, không có khả năng) 爻 hào [yáo] = hào, vạch. Bộ 爻 hào. Trong Dịch, vạch liền 一 gọi là hào dương, vạch đứt - - gọi hào âm. Ba hào kết hợp lại thành một quẻ. Có tất cả 8 kết hợp như

15. dĩ học dũ ngu

Image
以學愈愚 (以学愈愚) [yǐ xué yù yú] 以 dĩ = dùng, lấy; 學 học = học; 愈 dũ = khỏi; 愚 ngu = ngu. 以學愈愚 dĩ học dũ ngu = học cho khỏi ngu.  Thành ngữ lấy từ câu nói của Mạnh tử: "人皆知以食愈飢,莫知以學愈愚" Nhân giai tri dĩ thực dũ cơ, mạc tri dĩ học dũ ngu  = Ai cũng biết ăn cho khỏi đói, mà không biết học cho khỏi ngu. Cũng như tục ngữ ta,  không cày không có thóc, không học không biết chữ . Phải học mới không bị rơi vào cảnh tỉnh để chi oa hay manh nhân mạc tượng , mới biết một góc đã tưỡng mình biết tuốt, là duy nhất đúng, không chỉ gây cười mà, rất lắm khi, gây khóc cho bao người.   HỌC CHỮ 以 dĩ [yĭ] = dùng, lấy. Bộ 人 nhân. Cũng viết 㠯, là tượng hình lưỡi cày, gốc của chữ cử 耜 = lưỡi cày. Mở rộng nghĩa là dùng, làm. Về sau thêm bộ nhân 人 vào bên phải, dùng làm động từ với nghĩa "dùng, lấy, làm" hoặc làm giới từ với nghĩa "vì, do, theo, bằng" ...  Dĩ nhất đương thập = lấy một chống mười; dĩ thiểu thắng đa = lấy ít thắng nhiều; dĩ độc trị độc = lấy độc trị độc;  tự cổ dĩ la

ôn 2

Các thành ngữ đã học trong 7 bài vừa qua 班門弄斧 ban môn lộng phủ 布鼓雷門 bố cổ lôi môn 井底之蛙 tỉnh để chi oa 坐井觀天 tọa tỉnh quan thiên 盲人摸象  manh nhân mạc tượng 目中無人 mục trung vô nhân, 目下無人  mục hạ vô nhân 對牛彈琴 đối ngưu đàn cầm Các chữ đã học 1. 班 ban  [bān] = chia cho, ban phát. Hình lưỡi dao (viết thành刂) đang cắt chia chuỗi ngọc.  2. 布 bố  [bù] = vải gai; bày bố; loan báo. Vốn là một chữ hình thanh, gồm cân 巾 (khăn) chỉ ý + phụ 父 (cha) chỉ âm đọc. Về sau, chữ phụ bị rút gọn, chỉ còn lại hình bàn tay 𠂇, trông 布 giống như  hình tay cầm khăn 巾 ra hiệu trước khi loan báo gì. Bố cáo  = nói rõ cho mọi người biết.  Bố phòng  = sắp xếp lính để phòng địch.  Bố thí  = đem tiền của cho người khác.  Phân bố  = chia ra các nơi.  Công bố  = công khai nói rõ cho mọi gnười biết.  Bố y  布衣 áo quần vải thô, chỉ người bình dân.  Bố Cái đại vương  布蓋大王 hiệu của Phùng Hưng. 3. 琴 cầm  [qín] = đàn. Chữ hình thanh, trên là hình dây và trục đàn + dưới là chữ kim 今 (nay) chỉ âm đọc. 4. 斤 cân  [ jīn] = cái búa (rìu)