Posts

Showing posts from October, 2021

Hồi hương ngẫu thư (2)

Image
  回鄉偶書 (2) 離別家鄉歲月多, 离别家乡岁月多, 近來人事半消磨。 近来人事半消磨。 惟有門前鏡湖水, 惟有门前镜湖水, 春風不改舊時波。 春风不改旧时波。 賀知章 Âm : Hồi hương ngẫu thư (2). Li biệt gia hương tuế nguyệt đa, Cận lai nhân sự bán tiêu ma. Duy hữu Kính hồ môn tiền thủy, Xuân phong bất cải cựu thì ba. Hạ Tri Chương Chú thích: Đây là bài thứ hai trong hai bài thơ Hạ Tri Chương viết khi trở về quê sao gần 50 năm cách biệt. - 歲月 tuế nguyệt = năm tháng. - 近來 cận lai = gần đây. - 消磨 tiêu ma = tiêu thất, tiêu tán. - 鏡湖 Kính hồ = tên hồ trước cửa nhà tác giả. Nghĩa :  Xa cách quê nhà đã nhiều năm tháng, gần đây việc đời phân nửa đã dần dần mất hẳn. Chỉ có nước Kính hồ trước ngõ nhà, gió xuân không thay đổi làn sóng cũ. Tạm dịch : Li biệt quê nhà bao tháng năm, Người xưa chuyện cũ hóa xa xăm. Chỉ có trước hồ vẫn như cũ, Gió xuân nước gợn sóng lăn tăn. Một số bản dịch thơ đọc được trên trang thivien . net Năm tháng xa nhà chắc đã lâu Bạn bè mất nửa, nửa về đâu Hồ Gương trước cửa lung linh nước Gió chẳng làm thay gợn sóng sầu. Hải Đà Quê nhà xa các

Hồi hương ngẫu thư (1)

Image
  回鄉偶書 少小離家老大回, 少小离家老大回, 鄉音無改鬢毛衰。 乡音无改鬓毛衰。 兒童相見不相識, 儿童相见不相识, 笑問客從何處來。 笑问客从何处来。 賀知章 Âm : Hồi hương ngẫu thư Thiếu tiểu li gia lão đại hồi, Hương âm vô cải mấn mao thôi. Nhi đồng tương kiến bất tương thức, Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai. Hạ Tri Chương. Chú : + 書 thư, là sách; còn có nghĩa là viết, như thư pháp   = phép viết chữ. Hồi hương ngẫu thư = Ngẫu hứng viết khi về quê. + 鬢 mấn, tóc mai.  + 衰 suy, cũng đọc thôi, nghĩa gốc là cái áo tơi (hình chữ gồm chữ y  衣 áo + hình một mảng áo có đầu nhọn của lá tơi tủa ra); mượn dùng làm tính từ, có nghĩa là lụn bại (do hình ảnh chiếc áo te tua?).  + 相見 tương kiến = thấy nhau, gặp nhau. + 相識 tương thức = biết nhau. Tác giả 賀知章 Hạ Tri Chương là một nhà thơ thời nhà Đường. Ông đỗ tiến sĩ năm 37t, từ đó xa quê đi làm quan. mãi đến năm 80t mới cáo lão từ quan, về lại quê cũ. Được một năm thì mất. Bài thơ trên đây là một trong hai bài "Hồi hương ngẫu thư" ông viết khi mới trở về quê. Nghĩa : Thủa nhỏ xa quê, già trở về, Giọng quê k

Mẫn nông 2

Image
Hồi nhỏ, đọc bài thơ  Cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. cứ nghĩ là ca dao. Rất lâu sau này mới biết đó là bản dịch tuyệt hay bai thơ Mẫn nông (2) của Lí Thân. (Mẫn nông 1 đã học hôm trước) 憫農 (2) 鋤禾日當午, 汗滴禾下土。 誰知盤中餐, 粒粒皆辛苦。 李紳 Giản thể 锄禾日当午 , 汗滴禾下土。 谁知盘中餐 , 粒粒皆辛苦 。 Âm Sừ hoà nhật đương ngọ, Hãn trích hoà hạ thổ. Thuỳ tri bàn trung xan, Lạp lạp giai tân khổ. Lí Thân. Nghĩa Cày lúa lúc trời đang trưa, Giọt mồ hôi rơi xuống ruộng lúa. Ai biết rằng trên mâm cơm kia, Từng hạt từng hạt đều cay đắng. Bản dịch lục bát của tác giả khuyết danh quá hay (không biết có ai nghi Lí Thân dịch ca dao của ta không, như đã có người cho Thanh Tâm tài nhân dịch Kiều qua tiếng Tàu!). Dù vậy cũng thử dịch lại bằng thể ngũ ngôn để học cho vui Tạm dịch: Cày đồng trưa nắng to, Giọt giọt mồ hôi nhỏ. Bưng cơm ăn ai hay, Hột hột bao gian khó. Chép thêm một số bản dịch đcọ được trên trang thiviên . net Khương Hữu Dụng: Xới

Mẫn nông

Image
  憫農 (1) 春種一粒粟, 秋收萬顆子。 四海無閑田, 農夫猶餓死. 李紳 Giản thể: 春種一粒粟, 秋收萬顆子。 四海無閒田, 農夫猶餓死 Âm Hán Việt Mẫn Nông Xuân chủng nhất lạp túc, Thu thâu vạn khoả tử. Tứ hải vô nhàn điền, Nông phu do ngạ tử. Lí Thân Chú: - 憫農 mẫn nông = thương xót nhà nông. - 一粒粟 nhất lạp túc = một hột lúa. - 顆子 khỏa tử = hạt - 四海 tứ hải = bốn biển, chỉ khắp nơi. - 閑田 nhàn điền = ruộng bỏ không. - 猶 do = (phó từ) còn, mà còn. Do 猶 vốn là tên một loài thú có tính đa nghi, như con dự , người ta lấy tên hai loài thú này kết hợp thành từ do dự  chỉ sự đa nghi lưỡng lự không có quyết định dứt khoát. - 餓死 ngạ tử = chết đói. ( Ngạ quỷ = quỷ đói).  Lí Thân (772 - 846) là một quan đại thần đời Đường, từng làm đến tể tướng; đồng thời là một nhà thơ lớn, bạn thân của Bạch Cư Dị. Ông nổi tiếng với hai bài thơ Mẫn nông , đây là bài thứ nhất. Nghĩa: Mùa xuân gieo một hạt lúa, đến mùa thu thu được vạn hạt thóc. Khắp nơi không có ruộng bỏ hoang, sao nông phu vẫn còn người chết đói? Tạm dịch: Xuân đến gieo một hột, Thu về gặt cả hôc.  Ruộng

Đáp nhân

Image
  答人   偶來松樹下, 高枕石頭眠。 山中無歷日, 寒盡不知年。 太上隱者 Giản thể : 答人。 偶来松树下, 高枕石头眠。 山中无历日, 寒尽不知年。 Âm Hán Việt :   Đáp nhân.  Ngẫu lai tùng thụ hạ, Cao chẩm thạch đầu miên. Sơn trung vô lịch nhật, Hàn tận, bất tri niên. Thái thượng ẩn giả. - 答人 đáp nhân = trả lời cho người. Theo "Cổ kim thi thoại" đời Đường, trong úi Chung nam có vị ẩn sĩ, tên gì, quê quán ở đâu khong ai biết. Có người hiếu kì, đi theo hỏi, ông làm bài thơ trên đây để lại rồi đi mất; người đời gọi ông là Thái Thượng ẩn giả.  - 偶:偶然。Ngẫu nhien, bất chợt, tình cờ.  - 高枕:cao chẩm. Nằm kê gối cao, ngụ ý thanh nhàn vô sự. - 歷日:lịch.  - 寒:hàn = lạnh, thời tiết mùa đông.  Nghĩa : Chợt hứng lên thì tới dưới gốc thông, lấy đá kê cao gối đầu ngủ. Trong núi không có lịch, nên biết hết rét rồi, mùa đông đã tàn, nhưng không biết là mùa đông năm nào. Tạm dịch: Hứng tìm gốc thông to, Đá cao gối ngủ khò. Trong núi không có lịch, Ngày tháng biết chi mô. Chép thêm một số bản dịch thấy trên trang thivien.net và một số trang mạng khác, mọi ng

tam vạn quyển thư

Image
  壬寅年六月作 年來夏旱又秋霖 禾稿苗傷害轉深 三萬卷書無用處 白頭空負愛民心 陳元旦 Âm Hán Việt Nhâm Dần niên lục nguyệt tác Niên lai hạ hạn hựu thu thâm, Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm. Tam vạn quyển thư vô dụng xứ, Bạch đầu không phụ ái dân tâm. Trần Nguyên Đán Chú:  - 壬寅年 nhâm dần niên = năm nhâm dần, ở đây là năm 1362.  - 六月 lục nguyệt = tháng sáu. - 年來 niên lai = năm rồi, năm qua. - 三萬卷書 ba vạn quyển sách. Chú ý "quyển" xưa khá khác với bây giờ. Mỗi "quyển" có khi chỉ vài chục trang, thậm chí vài trang. Cuốn "Đại Việt Sử kí" là gồm 30 quyển. Dù vậy ba vạn quyển cũng là số lượng rất lớn. Ở đây ý là đọc rất nhiều sách. - 空負 không phụ =  phụ lòng, như cô phụ. - 陳元旦 Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), chắt của Trần Quang Khải, ông ngoại của Nguyễn Trãi. Làm quan đến chức Tư đồ thời cuối nhà Trần. Năm 1385 xin trí sĩ, về sống ẩn dật tại Côn Sơn.  Bài thơ này ông làm lúc đang giữ chức Đại phu Ngự sử đài, chuyên việc can gián dưới triều vua Trần Dụ Tông. Nghĩa : Thơ viết tháng 6 năm Nhâm Dần. Năm

du tử ngâm

Image
遊子吟 慈母手中線,遊子身上衣。 臨行密密縫,意恐遲遲歸。 誰言寸草心,報得三春暉。 Giản thể 慈母手中线,游子身上衣。 临行密密缝,意恐迟迟归。 谁言寸草心,报得三春晖 。 Bài thơ của Mạnh Giao, một nhà thơ nổi tiếng thời Đường, cùng với Giả Đảo được người đương thời đặt nick "Giao hàn Đảo sấu" (Mạnh Giao rét lạnh, Giả Đảo ốm o). Rét lạnh, ốm o vì ham đẽo chữ gọt vần đến quên ăn quên ngủ. Thế nhưng bài thơ của Giả Đảo được yêu thích nhất, bài "Tầm ẩn giả bất ngộ" học tuần trước, lại là bài ý tứ thâm trầm nhưng lời lẽ lại rất giản dị, đến mức người Việt dù không biết chữ Hán, nghe đọc (âm Hán Việt) lên cũng có thể hiểu được ý nghĩa của bài thơ. Bài này của Mạnh Giao, đối với người Việt chưa từng học chữ Hán thì có lẽ có đôi chữ nghe lạ. Âm Hán Việt Du tử ngâm Từ mẫu thủ trung tuyến, Du tử thân thượng y. Lâm hành mật mật phùng, Ý khủng trì trì quy. Thùy ngôn thốn thảo tâm, Báo đắc tam xuân huy. 遊子吟 du tử ngâm = khúc ngâm của người du tử. Du = đi, du tử = người rời nhà đi đâu đó, và ở lại bên ngoài khá lâu.  慈母 từ mẫu = mẹ hiền, 手中線 thủ trung tuyế